Trước khi kể về những loài hoa lạ “chưa được ai biết đến” tôi muốn nói về “cây hoa già lặng lẽ” dường như cũng bị lãng quên như loài hoa: kỹ sư Lương Văn Sáu, một kỹ sư chuyên về hoa, tốt nghiệp Trường Canh nông ở Versailles (Pháp), một trong vài người đầu tiên thiết lập nên công viên hoa Đà Lạt. Tất cả các loài hoa quí Đông Tây trong vườn hoa bây giờ đều lưu dấu những cuộc tìm kiếm của ông, người theo đuổi suốt đời với những loài hoa thân mộc. Ông chính là người đầu tiên đưa phượng tím (Jacaranda) có nguồn gốc từ châu Mỹ về trồng ở Đà Lạt vào năm 1962. Một trong vài cây do ông trồng bây giờ còn sót lại ở đường vào chợ Đà Lạt, ba cây khác chiết ra từ cây này. Các tài liệu về thực vật học phân loài hoa độc đáo, quyến rũ này vào loài hoa quí, nhưng mãi đến đầu năm 1994 bí mật về hoa Đà Lạt này mới thực sự được khám phá. Trong khi đó còn rất nhiều bí mật về hoa Đà lạt vẫn giấu kín trong “cây hoa già lặng lẽ” này. Càng bí ẩn hơn nữa khi mà căn bệnh hạch thanh quản đã cướp đi giọng nói của ông vĩnh viễn.
Suốt những năm qua, ông sống cô độc với người vợ trong một căn hộ chật chội ở đường Bùi Thị Xuân,và ba năm rồi ông phải gượng dậy chiết cành phượng tím gửi ra Huế, Hà Nội bán lấy tiền chữa bệnh... Cuộc trò chuyện về hoa Đà Lạt đã là một cuộc bút đàm. “Thưa bác, hình như cháu có nghe đến một loài hoa lạ có tên là chuông đỏ”. “Không phải là chuông đỏ mà là chuông vàng, tên khoa học Spathodea campanulata Bean, chuyển qua Hán Việt là sò đo cam, nhưng có nguồn gốc từ châu Phi. Một loài hoa thân mộc cao lớn, lá xanh gần giống lá muồng, hoa màu vàng pha cam, hình dáng như những quả chuông, mỗi chùm từ 40 đến 50 bông. Hoa nở suốt bốn mùa, những chùm chuông vàng rực rỡ trên nền xanh, trông như một thứ cây ăn quả. Vì nó quí và lạ, nên tôi mới mang về”õ. Và câu chuyện về quá trình di thực loại hoa này bắt đầu dài ra trên trang giấy khó nhọc. Năm 1958, từ Trường Canh nông Versailles trở về, hành trang của bác Sáu là những giống hoa lạ, trong đó có phượng tím, chuông vàng và... Bác trồng cây hoa chuông vàng đầu tiên ở lâm viên Trảng Bom - Tây Ninh. Sau giải phóng, bác trở lại chiết một cành mang tặng chùa Quan Thế Âm ở phía Bắc hồ Xuân Hương (Đà Lạt). Đó là cây hoa duy nhất ở Đà Lạt, ngoài cây chuông vàng ở Trảng Bom và một cây nữa được chiết về trồng ở Thảo cầm viên Sài Gòn. Bác muốn nhắn hỏi bây giờ nó còn sống hay không?
Theo lời bác Sáu, tôi tìm đến thăm cây chuông vàng ở chùa Quan Thế Âm. Ni sư trụ trì kể rằng: Sau khi trồng được ba năm thì cây ra hoa. Thấy cây hoa lạ mà rất đẹp, nhiều người hỏi xin giống, nhưng nhà chùa vẫn không biết cách lấy giống và trồng nó như thế nào. Bác Sáu kể, hoa chuông vàng muốn kết trái thì phải có một loài chim đặc biệt mỏ cong mới có thể đưa phấn vào đài hoa.
“Còn một cây lạ nữa... không biết bây giờ có còn không, nên tôi không muốn nói nữa”. Tôi liền hứa nếu bác cho biết thì tôi sẽ tìm nó, chụp ảnh về cho bác. Trầm ngâm hồi lâu, bác cầm cây bút tô đậm: cây đậu tía. Tên khoa học là Wisteria, tên quốc tế thường gọi là Shycine, có hai màu: xanh lơ (bleu) và trắng (blanc), nhưng rất thơm. Có nguồn gốc từ Đài Loan, là loài hoa phương Đông “hữu sắc, hữu hương” rất hiếm. “Người Đài Loan và Trung Quốc mà chọn để trồng trước cổng sơn đỏ là quí lắm. Tôi lấy gốc từ Đài Loan về trồng ở công viên hoa Đà Lạt vào năm 1963. Đến bây giờ, các kỹ thuật viên ở đó vẫn không biết nó nằm ở đâu. Cây này, nếu không được chăm sóc thì khó thấy cái quí của nó lắm”. Nói xong, bác lục tìm một cuốn sách đưa cho tôi xem. Đó là cuốn Guiness (1991) ghi rằng: “Cây đậu tía khổng lồ của Trung Quốc Wisteria sinensis được trồng vào năm 1892 tại Sierra Madre (California) cành dài 150 m, bao phủ 0,4 hecta đất, nặng 230 tấn. Kỳ đơm hoa thông thường là 5 tuần, mỗi cụm có 1 triệu 5 hoa, có đến 30.000 người đến chiêm ngưỡng”.
Bác Sáu cho biết còn một cây hoa thân mộc rất quí, ở Đà Lạt chỉ có một cây một thôi, được trồng ngay cổng khách sạn Palace, đường Trần Phú bây giờ. Tên nó là: vông kê. Loài này có nguồn gốc từ Trung Đông và Châu úc, tên khoa học là Erythrina cristagalli l. (thuộc họ châu vông). Cái tên vông kê là do bác Sáu đặt. Hoa ở cuối đông đầu xuân, từng chuỗi dài năm tấc, màu đỏ như mồng gà (khác hẳn với hoa mào gà thân thảo). Cây vông kê ở khách sạn Palace được trồng vào năm 1965. “Những năm đầu hoa kết trên 5.000 chuỗi, đỏ ối, nặng trĩu cả cây. Sau này, vì không được chăm sóc nên cây cho ít hoa. Bây giờ là mùa vông kê trổ bông đấy, cháu hãy đến xem rồi về nói lại cho bác nghe với”.
Cây vông kê ở cổng sau khách sạn năm sao mọc lẫn giữa những cây thông, thân và cành tựa cây si, nhưng trổ ra những chuỗi hoa màu đỏ tươi. Chỉ tiếc hoa nở ít quá nên dễ lầm nó với những loại cây xanh bình thường. Còn ở công viên hoa, các kỹ thuật viên cho biết ở đây không có cây nào tên là đậu tía Wisteria cả. Cuối cùng, khi tôi gắng hỏi có cây hoa nào mà Đà Lạt không có, anh Phi - đội trưởng đội cây giống - cho biết: có một loại cây cẩm cầu. Tôi mang về định bụng hỏi bác Sáu có biết không. “Phải gọi cho đúng là cẩm cù. Nó đấy, nó là đậu tía đấy”. Bác mừng như tìm lại được đứa con đã thất lạc lâu ngày. Bác nói, cần phải kịp thời nhân giống để bảo vệ nguồn gen quí này nhưng các kỹ thuật viên về hoa ở Đà Lạt không biết cách đâu. Theo bác, phượng tím, chuông vàng vông kê (đỏ) là những cây lạ, vừa là hoa vừa là cây bóng mát. Nếu được trồng trên đường phố Đà Lạt thì sẽ có một phối sắc tuyệt vời. Còn vườn hoa, nếu muốn trở thành một bảo tàng hoa, thì không thể thiếu những loài hoa lạ như đậu tía. “Bác ơi, chắc là còn một cây nữa chứ?” ?. “Còn một cây nữa... nhưng thôi. Hãy từ từ mà lo cho mấy cây kia đi đã”.
Mùa xuân này, bạn lên chơi Đà Lạt, xin hãy tìm đến với những cây hoa lạ của bác Sáu, và cũng đừng quên có một “cây hoa già” đang chứa trong mình những bí ẩn về hoa Đà Lạt.
Nguồn Dalatrose
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment